Các bộ KH-ĐT, GTVT vừa đưa ra những quan điểm khác nhau về dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam liên quan đến vấn đề chi phí đầu tư.
Hành trình xe lửa Bắc-Nam. Ảnh: HOÀNG HÙNG
Bộ KH-ĐT: Có thể tiết kiệm hơn 32 tỷ USD
Bộ KH-ĐT vừa có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ, nêu quan điểm cho rằng có thể xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam với tổng vốn đầu tư chỉ khoảng 26 tỷ USD, tiết kiệm tới hơn 32 tỷ USD so với phương án mà Bộ GTVT trình.
Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam có các kịch bản lựa chọn gồm: nâng cấp tuyến đường sắt hiện đại có tốc độ khai thác 80-90km/giờ tàu khách và 50-60km/giờ tàu hàng; nâng cấp tuyến đường sắt hiện tại thành đường đôi khổ 1.435mm, điện khí hóa khai thác chung tàu khách và tàu hàng có tốc độ 200km/giờ; nâng cấp tuyến đường sắt hiện đại tốc độ 70km/giờ cho tàu khách địa phương và tàu hàng. Đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao đường đôi, khổ 1.435mm, điện khí hóa chỉ khai thác cho tàu khách có tốc độ 320km/giờ, tốc độ thiết kế 350km/giờ.
Tại tờ trình Thủ tướng Chính phủ số 1281/TTr-BGTVT ngày 14-2-2019, Bộ GTVT đã kiến nghị phương án lựa chọn thực hiện đầu tư dự án theo kịch bản 3 với tổng mức đầu tư 1.344.459 tỷ đồng (tương đương 58,7 tỷ USD), trong đó vốn nhà nước chiếm 80%, vốn tư nhân chiếm 20%. Thời gian thực hiện chia làm 2 giai đoạn: từ năm 2020 – 2032, thực hiện đầu tư đoạn Hà Nội – Vinh và Nha Trang – TPHCM, từ năm 2032 – 2050, thực hiện đầu tư đoạn Vinh – Nha Trang.
Tuy nhiên, văn bản của Bộ KH-ĐT, do Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng ký, nhận định, qua nghiên cứu và kinh nghiệm trên thế giới, thì chi phí đầu tư xây dựng đường sắt có tốc độ 200km/giờ thấp hơn khoảng 10% so với chi phí đầu tư đường sắt có tốc độ 350km/giờ. Chi phí đầu tư phương tiện thiết bị chênh lệch 9% đến 26%. Vẫn theo Bộ KH-ĐT, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án lựa chọn tốc độ thiết kế 350km/giờ (chủ yếu ở Nhật Bản, Pháp) cạnh tranh với hàng không, đem lại hiệu quả khai thác và có tác dụng điều chỉnh lại cơ cấu thị phần vận tải hợp lý giữa các loại hình giao thông, tuy nhiên tuyến đường sắt tốc độ cao này chỉ khai thác cho tàu khách mà không khai thác cho tàu hàng.
Mặt khác, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án phân tích kịch bản 2 là “nâng cấp tuyến đường sắt hiện tại thành đường đôi khổ 1.435mm, điện khí hóa khai thác chung tàu khách và tàu hàng có tốc độ 200km/giờ” có khối lượng giải phóng mặt bằng rất lớn, tác động nhiều đến xã hội do tuyến đường sắt hiện hữu đi qua nhiều khu đô thị (chi phí đầu tư 40 tỷ USD) trong khi phương án đầu tư tuyến mới như kịch bản 3 (có khối lượng giải phóng mặt bằng không lớn, có khả năng rút ngắn chiều dài tuyến để giảm thiểu khối lượng) nhưng tốc độ chạy tàu là 200km/giờ không được đem so sánh.
Dẫn kinh nghiệm quốc tế (tại Đức và Hà Lan), Bộ KH-ĐT cho rằng, đề xuất của Bộ GTVT về việc đầu tư tuyến đường sắt có tốc độ thiết kế 350km/giờ, tốc độ khai thác 320km/giờ với tổng mức đầu tư 58,71 tỷ USD, sẽ có nhiều rủi ro, tác động xấu đến nguồn vốn đầu tư phát triển. Đó là có nguy cơ phải đình hoãn đầu tư các công trình hạ tầng giao thông khác để tạo mọi nguồn lực cho đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam trong thời gian 30 năm hoặc còn lâu hơn nữa. Ngoài ra, do Việt Nam chưa có sự chuẩn bị đầy đủ để triển khai một tuyến đường sắt tốc độ cao nên sẽ mất chủ động, bị lệ thuộc công nghệ nước khác, không bảo vệ được quyền lợi và khả năng tự chủ của Việt Nam…
Vẫn theo phương án này, sau khi kết thúc giai đoạn 1 của dự án, các đoạn Hà Nội – Vinh và Nha Trang – TPHCM sẽ có năng lực thông qua 364.000 hàng khách/ngày, trong khi dự báo số lượng hành khách trên đoạn tuyến này vào năm 2035 chỉ đạt 55.000 – 58.000 hành khách/ngày chưa sử dụng hết 16% công suất của tuyến. Do đó, việc đầu tư dự án ngay trong giai đoạn 1, theo Bộ KH-ĐT là đã quá dư thừa và lãng phí.
Bộ KH-ĐT nhìn nhận, yếu tố tốc độ là vấn đề then chốt của đường sắt tốc độ cao và có thể thấy rằng, đường sắt tốc độ cao hiệu quả khi tốc độ khai thác tối đa là 200km/giờ như các nước đã làm. Theo số liệu đánh giá của Hà Lan và Đức thì khi tốc độ chạy tàu trên trục Bắc – Nam là 200km/giờ, tổng mức đầu tư dự án này sẽ khoảng 26 tỷ USD mà vẫn đảm bảo hiệu quả. Tốc độ khai thác 200km/giờ, cho phép thời gian từ Hà Nội đi TPHCM chỉ mất khoảng 8 giờ; giảm chi phí đầu tư, giảm chi phí vận tải của nền kinh tế, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả…