Chính phủ của Thủ tướng Phạm Minh Chính được thừa hưởng nhiều di sản nhưng cũng đối diện với nhiều thách thức, đặc biệt về cải cách thể chế, để hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước phát triển ở tầm cao.
Nền tảng di sản
Phát biểu lần cuối cùng trước Quốc hội trong vai trò là người đứng đầu Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhớ lại một kỷ niệm ông nêu khi nhậm chức.
Lúc đó, Thủ tướng nêu một thực trạng: Quy mô nền kinh tế Việt Nam chỉ đứng thứ 48 trên thế giới, không tương xứng với quy mô dân số đứng thứ 14.
Bảng xếp hạng này đã thay đổi sau 5 năm trong nhiệm kỳ Chính phủ. Theo IMF, GDP năm 2020 của Việt Nam đạt 340,6 tỷ USD, vượt Singapore với 337,5 tỷ USD, Malaysia 336,5 tỷ USD, trở thành nền kinh tế có quy mô lớn thứ 4 trong ASEAN và đứng thứ 37 thế giới.
Ông nói: “Năm 2020, quy mô GDP của Việt Nam tăng khoảng 1,4 lần so với của năm 2015, đạt trên 340 tỷ USD. Trong 5 năm qua, chúng ta đã cùng nhau tạo ra tổng số khoảng 1.300 tỷ USD giá trị tăng thêm… Chúng ta rất tự hào là đến nay xếp hạng của nước ta đã tăng 11 bậc, vượt qua 11 quốc gia, đứng thứ 37 thế giới”.
Ông Phúc gửi gắm: “Dù con đường đi lên còn đầy khó khăn, thử thách, nhưng chúng ta hoàn toàn tin tưởng không lâu nữa Việt Nam sẽ bước sang ngưỡng thu nhập trung bình cao và gia nhập Nhóm nước phát triển có thu nhập cao vào 2045”.
Chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên cho rằng, Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021 đã để lại một số thành tựu kinh tế, trong đó nổi bật ở 3 lĩnh vực.
Thứ nhất là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, giảm nợ công xuống mức thấp, tăng xuất khẩu và dự trữ ngoại tệ, tạo dư địa cho chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân.
Thứ hai là cải cách thể chế kinh tế, trong đó tập trung cải cách thủ tục hành chính, thúc đẩy chính phủ điện tử. Chính phủ đã xóa bỏ hàng ngàn giấy phép con, đơn giản hóa một nửa thủ tục kiểm tra chuyên ngành.
Thứ ba là hội nhập quốc tế sâu rộng với các hiệp định thương mại thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, vừa mở ra thị trường mới, vừa tạo áp lực để tiếp tục cải cách trong nước.
TS Võ Trí Thành, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương đồng tình và bổ sung: “Những nền tảng này đã tạo nên những năng lượng mới tích cực cho người dân, doanh nghiệp, cho nền kinh tế. Vị thế của Việt Nam đã có bước tiến tích cực rất đáng kể trên trường quốc tế”.
Bên cạnh đó, di sản của Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc để lại cho nhiệm kỳ sau là thành tích chống dịch khá thành công, giúp nền kinh tế không bị phong tỏa quá nhiều lần. Nhờ đó, triển vọng phát triển kinh tế của đất nước khá hứa hẹn qua hàng loạt đánh giá của các định chế tài chính quốc tế.
Điểm yếu cốt tử của nền kinh tế hiện nay là hiệu quả sử dụng nguồn lực rất thấp… Ảnh: T.Tùng
Ví dụ, ngân hàng Standard Chartered nhận định triển vọng kinh tế Việt Nam ổn định và dự báo tăng trưởng kinh tế sẽ quay trở lại mức 6-8% trong năm nay và những năm tới. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự kiến nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 6,5% trong năm 2021; Fitch dự báo GDP có thể tăng trưởng tới 7,5% trong năm 2021; tổ chức Euromonitor còn dự báo tăng trưởng lên đến 11% trong năm nay.
Các thách thức phát triển
Những nền tảng kinh tế và vị thế đất nước ngày nay, muốn nói gì thì nói, phải là kết quả của biết bao nỗ lực của nhiều thế hệ đi trước trong đấu tranh giữa cái cũ và mới, giữa cái đổi mới và lạc hậu trong suốt hành trình dài kể từ khi bắt đầu Đổi mới và mở cửa cách đây 35 năm.
Trong hành trình đó, nền kinh tế đến nay vẫn ở giai đoạn chuyển đổi với nhiều khiếm khuyết, lạc hậu cần nhận diện để khắc phục, vươn lên. Chẳng hạn, tốc độ phát triển kinh tế, dù cao bậc nhất thế giới, đang chững lại.
Một báo cáo của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho biết, tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng giảm dần, từ 7,34%/năm giai đoạn 1991-2000 xuống còn 6,82%/năm giai đoạn 2001-2010, và ước 5,9% giai đoạn 2011-2020 – thấp xa so với mục tiêu bình quân phải tăng từ 7-8%/năm của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020.
Tốc độ tăng trưởng Việt Nam thấp hơn các nước trong cùng thời kỳ phát triển. Tính từ năm 1990 đến nay, Việt Nam mới chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 8,21%/năm có 5 năm trong giai đoạn 1991-1995. Các nước khác trong giai đoạn có trình độ tương đương của Việt Nam hiện nay đều duy trì được tốc độ tăng trưởng rất cao trong một thời gian tương đối dài.
Ví dụ, Hàn Quốc tăng trưởng GDP trung bình đạt 9,58%/năm trong 30 năm (1960-1990), có 14 năm tăng trưởng trên 10%; cao nhất đạt 14,8% (năm 1973); quy mô kinh tế theo giá USD cố định năm 2010 tăng 15,4 lần, theo giá hiện hành tăng hơn 70 lần. Trung Quốc trong 30 năm cải cách và phát triển (1977-2007), tăng trưởng GDP bình quân là 10,02%/năm; mức tăng trưởng cao nhất (năm 1984) là 15,14%; có 15 năm tăng trưởng GDP đạt hơn 10%.
Như vậy, so với thành tích tăng trưởng trong quá khứ của chính chúng ta cũng như các nước láng giềng, tăng trưởng hơn một chục năm nay đều kém xa, thụt lùi.
So với thành tích tăng trưởng trong quá khứ của chính chúng ta cũng như các nước láng giềng, tăng trưởng hơn một chục năm nay đều kém xa. Ảnh: Lê Anh Dũng