Tuy nhiên, trước những cơ hội lớn đó, không ít doanh nghiệp, ngành hàng trong cả nước nói chung và doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng vẫn đang loay hoay bài toán cải thiện nội lực để đáp ứng “sân chơi” hội nhập.
Ảnh minh họa.
Cú hích quan trọng cho xuất khẩu
Hiệp định EVFTA được đánh giá là một trong những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, toàn diện, chất lượng cao và cân bằng về lợi ích sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, giảm áp lực phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống. Đồng thời, đây cũng là động lực để các doanh nghiệp trong và ngoài nước đẩy mạnh đầu tư, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của kinh tế Việt Nam.
Theo ước tính của Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương, EVFTA sẽ giúp xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng khoảng 21%/năm trong khoảng 10 năm đầu, cao hơn từ 4-6% so với khi chưa có EVFTA. Việc thực thi EVFTA dự kiến sẽ đưa kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU đạt 85 tỷ USD vào năm 2020 và đạt 220 tỷ USD vào năm 2025.
Phân tích những lợi thế mà EVFTA mang lại cho Việt Nam, ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương cho biết sở dĩ EVFTA có thể mang lại sự gia tăng đáng kể về xuất khẩu cho Việt Nam là bởi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và EU mang tính bổ sung cho nhau. Trong khi Việt Nam xuất khẩu giày dép, dệt may, thủy sản, nông sản, đồ gỗ, điện thoại và linh kiện thì EU xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm chất lượng cao như dược phẩm, hóa mỹ phẩm, ôtô, các sản phẩm đầu vào cho sản xuất như máy móc, thiết bị, hóa chất…
Theo ông Ngô Chung Khanh, mặc dù trước khi EVFTA có hiệu lực, một số ngành hàng của Việt Nam đã nhận được ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) với mức thuế khá thấp nhưng EVFTA vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập cơ chế ưu đãi ổn định, lâu dài hơn vì thế sẽ thúc đẩy phát triển thương mại toàn diện hơn. Thêm vào đó, Việt Nam đang chiếm hơn 1/3 tổng giá trị xuất khẩu của ASEAN vào EU và là quốc gia thứ 2 trong ASEAN (sau Singapore) có FTA với EU. Do đó, EVFTA có hiệu lực sẽ giúp hàng hóa Việt Nam có lợi thế hơn hàng hóa các nước khác trong ASEAN.
Cùng chung nhận định, ông Phạm Bình An, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ hội nhập quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng EVFTA là một bước tiến mới của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhìn chung, hầu hết các ngành hàng đều sẽ được hưởng lợi từ EVFTA nhưng nhóm ngành tiêu dùng như dệt may, da giày, nông sản thủy sản sẽ có nhiều lợi thế đẩy mạnh xuất khẩu do được ưu đãi hơn bằng việc cắt giảm thuế sâu, cơ bản là sau 7 năm thực thi thì tất cả các dòng thuế đều về 0%.
Theo ông Phạm Bình An, không chỉ ưu đãi cắt giảm thuế quan, EVFTA còn có các cơ chế hiệu quả giúp xúc tiến xuất khẩu liên quan đến hàng rào phi thuế quan biện pháp vệ sinh và kiểm dịch (SPS), hàng rào kỹ thuật (TBT), thủ tục hải quan, công nhận chỉ dẫn địa lý, hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực.
Quan trọng hơn cả, từ lợi thế ưu đãi thuế nhập khẩu cũng như các cơ chế tạo thuận lợi thương mại cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, EVFTA sẽ tạo ra nhiềm tin cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, phát triển sản xuất tại Việt Nam để xuất khẩu sang EU, qua đó, tạo sự chuyển biến tích cực về năng lực và lợi thế cạnh tranh trong dài hạn cho Việt Nam.
Theo tính toán của Hiệp hội doanh nghiệp Dệt may Việt Nam, việc thực thi EVFTA có thể giúp đưa kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào EU tăng mạnh sau năm 2020. Hiện nay, EU đang chiếm khoảng 21% tổng giá trị xuất khẩu dệt may nhưng nếu doanh nghiệp tận dụng tốt, xuất khẩu vào EU có thể chiếm tới 25% hoặc thậm chí có thể đạt 30% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào năm 2025.
Ông Trần Như Tùng, thành viên Hội đồng quản trị Công ty dệt may Thành Công nhận định EVFTA là một hiệp định mang lại nhiều lợi thế cho ngành dệt may Việt Nam bởi dung lượng thị trường EU rất lớn, trong khi số lượng hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào đây còn khá ít. Sản phẩm dệt may Việt Nam hiện xuất khẩu nhiều đến thị trường Mỹ và Nhật Bản, còn tỷ trọng đi EU mới chiếm khoảng 21% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Theo ông Trần Như Tùng, trước đây, thị trường EU thường lựa chọn nhà cung ứng ở các quốc gia có FTA chung do lợi thế cạnh tranh về thuế nhập khẩu (chênh lệch từ 8-12%) nên các doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều cơ hội tiến sâu vào thị trường này. Tuy nhiên, khi EVFTA đi vào thực thi, gần một nửa dòng thuế nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam được xóa bỏ ngay, phần còn lại được cắt giảm trong thời gian 3-7 năm thì dệt may Việt Nam sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh nhất định.
Thêm vào đó, so với các nước đã có FTA với EU trước Việt Nam thì chi phí nhân công ở Việt Nam vẫn khá cạnh tranh, hàng dệt may Việt Nam vì thế sẽ có thêm sức cạnh tranh về giá thành.
Hơn nữa, mặc dù yêu cầu về quy tắc xuất xứ của EVFTA cao hơn hầu hết các FTA khác mà Việt Nam đang thực thi nhưng vẫn dễ thở hơn so với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Với sản phẩm dệt may, CPTPP yêu cầu quy tắc xuất xứ 3 công đoạn từ sợi trở đi còn EVFTA chỉ yêu cầu 2 công đoạn trở đi và cho phép sử dụng nguyên liệu từ các quốc gia có FTA với EU. Do đó, những doanh nghiệp xuất khẩu đã tận dụng được ưu đãi từ CPTPP thì cũng dễ dàng tận dụng được ưu đãi của EVFTA.
Thủy sản được xem là ngành được hưởng lợi nhiều từ EVFTA bởi trước đó đang chịu mức thuế cơ sở khá cao (6-22%) nhưng ngay khi hiệp định có hiệu lực, 50% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ ngay và sau 7 năm sẽ xóa bỏ hoàn toàn các dòng thuế (trừ cá ngừ đóng hộp và cá viên sử dụng hạn ngạch thuế quan).
Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam phân tích EVFTA với những cam kết về cắt giảm thuế quan đối với nhiều mặt hàng thủy sản của Việt Nam sẽ giúp thủy sản Việt Nam có lợi thế cạnh tranh tốt hơn so với thủy sản các quốc gia khác, tạo cơ hội để các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phát triển tốt thị trường EU. Trong bối cảnh những năm vừa qua xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào EU khá trầm lắng thì EVFTA có hiệu lực sẽ là cú hích cho sự gia tăng sức mua của khu vực thị trường này.
Một trong những lý do mà ngành thủy sản Việt Nam mong chờ EVFTA đi vào thực thi là bởi hiệp định này được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam phục hồi lại hoạt động xuất khẩu cá tra vào thị trường EU, nhất là các nước nói tiếng Tây Ban Nha sau thời gian chịu nhiều sức ép về cạnh tranh và truyền thông. Theo đó, EVFTA với các điều khoản cam kết về môi trường và truy xuất nguồn gốc chặt chẽ sẽ giúp tâm lý các nhà nhập khẩu yên tâm hơn, từ đó gia tăng được sản lượng xuất khẩu cá tra.
Không chỉ hỗ trợ gia tăng xuất khẩu, EVFTA còn được cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng sẽ thiết lập môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng và tạo sức hút đầu tư vào kinh tế nội địa.
Ông Nguyễn Viết Toàn, Giám đốc Công ty ETEC chia sẻ EVFTA có ý nghĩa đặc biệt với các doanh nghiệp, bởi việc thực thi EVFTA cũng như các FTA thế hệ mới khác chính là cơ hội để Việt Nam cải thiện và thay đổi một cách kịp thời đối với những quy định về mặt luật pháp và thể chế. Từ đó thiết lập môi trường đầu tư kinh doanh công bằng, minh bạch hơn.
Đối với các ngành như dịch vụ, kỹ thuật, công nghệ tự động hóa, ông Toàn cho rằng Việt Nam hiện chưa có nhiều sản phẩm để cạnh tranh với các nước châu Âu. Nhờ vậy, EVFTA chính là cánh cửa để Việt Nam hấp thu các thành tựu của EU về máy móc công nghệ và mở ra cơ hội đầu tư cho các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này, tạo nền tảng cho sự phát triển bứt phá hơn trong tương lai.
Ông Chu Tiến Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng EVFTA là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, toàn diện, đem lại rất nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam. Phần lớn hàng rào thuế quan sẽ được gỡ bỏ giúp hàng hóa, sản phẩm Việt Nam dễ dàng tiếp cận vào khu vực thị trường rộng lớn, nhiều tiềm năng với quy mô dân số hơn 500 triệu người, chiếm khoảng 22% GDP của toàn thế giới. EU cũng là khu vực có hoạt động thương mại sôi động với kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm đạt hơn 3.800 tỷ USD.
Theo ông Chu Tiến Dũng, việc tiếp cận khu vực thị trường phân khúc cao như EU là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam cọ xát, nâng cao năng lực quản trị, trình độ kinh doanh, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và sự minh bạch về thông tin.
“Việc tuân thủ các tiêu chuẩn đã cam kết với EU cũng là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam cải tiến, nâng cấp mình lên một tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu về mặt chất lượng, kỹ thuật cũng như tạo ra giá trị phát triển bền vững,” ông Chu Tiến Dũng nhấn mạnh.
Giải pháp về nguồn cung nguyên liệu
Mặc dù cơ hội mà EVFTA mang lại cho các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam là rất lớn nhưng cơ hội đó chỉ dành cho những doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ các cam kết về chất lượng, xuất xứ cũng như các tiêu chí phát triển bền vững. Do đó, con đường duy nhất để doanh nghiệp khai thác hiệu quả các ưu đãi là tập trung nâng cao nội lực cho doanh nghiệp, ngành hàng bằng việc chủ động nguồn cung nguyên liệu sản xuất và khả năng hội nhập.
Ông Nguyễn Văn Khánh, Phó Chủ tịch Hội da giày Thành phố Hồ Chí Minh cho biết trong khoảng 2 năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu giày dép vào EU có xu hướng gia tăng và chiếm khoảng 38% tổng giá trị xuất khẩu. Việc thực thi EVFTA với ưu đãi xóa bỏ đa số dòng thuế quan ngay sau khi hiệp định có hiệu lực, số còn lại cũng được cắt giảm theo lộ trình 3-7 năm chính là cơ hội lớn để ngành da giày Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, gia tăng thị phần tại thị trường EU.
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất của ngành da giày hiện nay là thiếu nguyên liệu trong nước và nguyên liệu đáp ứng quy tắc xuất xứ của các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đang tham gia.
Theo ông Nguyễn Văn Khánh, hiện nay, 75% giá trị xuất khẩu giày da vẫn đang thuộc nhóm doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm khoảng 25% tổng giá trị xuất khẩu hàng năm. Hầu hết, doanh nghiệp da giày trong nước là đơn vị gia công, chỉ làm thợ và phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu. Năm 2018, Việt Nam nhập khẩu hơn 1,7 tỷ USD nguyên liệu da thuộc từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, Brazil…
Trong khi sản xuất thuộc da đóng vai trò quan trọng trong sản xuất giày da nhưng việc phát triển các nhà máy thuộc da ở Việt Nam rất khó khăn, một phần do không có đủ nguồn vốn và phần khác là khó đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường. Thêm vào đó, hơn 85% doanh nghiệp da giày Việt Nam là làm gia công, có tỷ suất lợi nhuận rất thấp không đủ khả năng để đầu tư vào máy móc công nghệ, nhiều nhà máy vẫn đang sử dụng dây chuyền sản xuất của những năm 1990. Chỉ có một vài doanh nghiệp lớn có nguồn lực đầu tư cho công nghệ, chủ động sản xuất và xuất khẩu đạt được lợi nhuận tương đối cao.
Chính vì vậy, muốn đảm bảo nguyên tắc xuất xứ để được hưởng ưu đãi từ EVFTA, trước mắt các doanh nghiệp da giày cần chuyển hướng tìm kiếm nguồn cung nguyên liệu trong khối EU để đảm bảo tỷ lệ nguyên liệu nội khối. Về lâu dài, Nhà nước cần quy hoạch các cụm công nghiệp sản xuất thuộc da và nguyên phụ liệu ngành da giày cũng như tập hợp các doanh nghiệp thành cụm công nghiệp tập trung nhằm thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp.
“Chỉ khi giải quyết được bài toán nguyên liệu sản xuất và liên kết chuỗi một cách chặt chẽ mới khắc phục được các điểm yếu do sản xuất quy mô nhỏ của các doanh nghiệp ngành da giày Việt Nam. Từ đó, nâng cao khả năng đáp ứng các đơn hàng số lượng lớn và tận đụng hiệu quả ưu đãi về thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao giá trị, hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp,” ông Nguyễn Văn Khánh nhấn mạnh.
Tương tự như da giày, khả năng cung ứng nguyên phụ liệu cũng chính là thách thức lớn nhất trong việc tận dụng ưu đãi từ EVFTA của các doanh nghiệp ngành dệt may hiện nay.
Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết vấn đề lớn của các doanh nghiệp dệt may hiện nay là phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, rất ít doanh nghiệp chủ động được nguồn cung nguyên liệu đáp ứng quy tắc xuất xứ nội khối để được hưởng ưu đãi thuế. Thực tế phần lớn doanh nghiệp trong ngành dệt may chỉ thực hiện công đoạn may gia công mà không tham gia vào các công đoạn dệt, nhuộm vải hay thiết kế sản phẩm.
Chính vì vậy, hàm lượng nội địa của sản phẩm dệt may rất thấp và doanh nghiệp Việt Nam cũng không được hưởng nhiều lợi ích về mặt giá trị gia tăng khi xuất khẩu. Một nguy cơ khác là trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ và thay đổi từng ngày thì rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn thờ ơ với việc thay đổi công nghệ, ỷ lại vào nguồn lực nhân công. Điều này nếu không nhanh chóng cải thiện sẽ khiến doanh nghiệp Việt bị bỏ lại trong cuộc đua nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và chi phí sản xuất.
Để khai thác tối đa những ưu đãi mà EVFTA mang lại, ông Vũ Đức Giang cho rằng cả cơ quan quản lý và cộng đồng doanh nghiệp phải cùng vào cuộc, trong đó, Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để thu hút đầu tư từ doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI vào sản xuất nguyên phụ liệu. Đặc biệt, phải có cơ chế thúc đẩy sự liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu với doanh nghiệp may mặc tạo thành chuỗi liên kết khép kín, đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ.
Về phía doanh nghiệp, phải chủ động đầu tư cho con người, máy móc và công nghệ hướng tới hoạt động nghiên cứu phát triển, thiết kế sản phẩm và nâng cao năng suất và cắt giảm chi phí đến mức tối đa. Chỉ khi chủ động tham gia vào các công đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao thì doanh nghiệp Việt Nam mới được hưởng lợi thực sự từ các FTA nói chung và EVFTA nói riêng.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam cho rằng EU là thị trường truyền thống quan trọng của thủy sản Việt Nam nhưng cũng đồng thời là thị trường có những yêu cầu khắt khe về chất lượng, nguồn gốc sản phẩm. Đây cũng là thị trường đề cao các tiêu chí về lao động, môi trường, trách nhiệm xã hội phục vụ sự phát triển bền vững, do đó, nếu EVFTA đi vào thực thi mà doanh nghiệp không có sự chuẩn bị kỹ càng, đáp ứng tiêu chuẩn của thị trường thì những ưu đãi về mặt thuế quan cũng trở nên vô nghĩa.
Chính vì vậy, trong suốt thời gian qua, các doanh nghiệp ngành thủy sản đã chủ động nỗ lực đáp ứng yêu cầu về chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và tuân thủ việc đánh bắt hợp pháp để đón đầu cơ hội vận dụng tốt ưu đãi ngay khi EVFTA có hiệu lực.
Ông Chu Tiến Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh phân tích với việc tham gia nhiều FTA thế hệ mới, toàn diện, độ mở của nền kinh tế Việt Nam ngày càng lớn. Điều này đem lại rất nhiều cơ hội cho doanh nghiệp nhưng cũng tạo ra không ít áp lực về mặt cạnh tranh.
Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp không chủ động thích ứng sẽ không thể tồn tại, vì vậy mỗi doanh nghiệp phải tự thân vận động, nâng cao trình độ quản trị theo tiêu chuẩn quốc tế, hướng tới sản xuất minh bạch, đổi mới công nghệ để đảm bảo chất lượng sản phẩm đồng đều, ổn định; đồng thời, nâng cao trình độ, nhận thức của người lao động trong hợp tác kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng năng lực thật sự của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế so với doanh nghiệp quốc tế, điều kiện tiếp cận các phương thức hỗ trợ về tài chính, về công nghệ so với doanh nghiệp nước ngoài cũng khó khăn hơn. Chính vì vậy, cộng đồng doanh nghiệp mong muốn các cơ quan quản lý nhà nước tiếp tục hoàn thiện thêm về môi trường pháp lý, đầy đủ và minh bạch nhằm tạo ra sân chơi lành mạnh, bình đẳng cho các doanh nghiệp.
Ông Phạm Bình An, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ hội nhập Quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh nhận định các nước EU đã phát triển từ lâu và có hệ thống tiêu chuẩn cao trong khi Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn phát triển thì việc đáp ứng các yêu cầu của EU đối với một số ngành hàng sẽ gặp khó khăn trong thời gian đầu.
Mặt khác, nội dung cam kết về điều kiện áp dụng, lộ trình cắt giảm các loại thuế quan trong EVFTA là rất đa dạng và khác nhau đối với từng ngành hàng. Vì vậy, rất khó để có giải pháp chung cho tất cả các ngành hàng mà mỗi doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu, tra cứu và nghiên cứu những nội dung liên quan đến lĩnh vực mà mình đang kinh doanh để có phương án tận dụng hiệu quả./.
Nguồn Vietnam+TT