Một năm trước, đại dịch hoành hành từ quốc gia này sang quốc gia khác và ảnh hưởng lên toàn bộ các nền kinh tế. Người tiêu dùng điên cuồng mua sắm vì sợ hết hàng. Còn hiện tại, khi kinh tế trên đà phục hồi, các công ty đang phải chạy đua để tích trữ nguyên vật liệu phục vụ sản xuất.
Bể chứa dầu tại một cơ sở ở New Jersey. Cách đây chưa đầy hai tuần, tin tặc đã đánh sập đường ống dẫn nhiên liệu lớn nhất của Mỹ, khiến giá xăng lần đầu tiên vọt lên hơn 3 USD/gallon kể từ năm 2014.
Khan hiếm nguyên vật liệu
Các nhà sản xuất nệm, ô tô cho đến màng nhôm tại Mỹ đều đang mua nhiều vật liệu hơn mức cần thiết. Họ cần đáp ứng nhu cầu đang tăng lên chóng mặt của khách hàng và giảm bớt nỗi sợ hãi về việc cạn kiệt nguồn cung. Sự điên cuồng này đang khiến các chuỗi cung ứng bị quá tải. Tình trạng hàng hóa thiếu hụt, vận chuyển tắc nghẽn và giá cả tăng vọt gần đạt ngưỡng cao kỷ lục, làm dấy lên lo ngại về lạm phát khi nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng quá nhanh.
Đồng, quặng sắt và thép; Ngô, cà phê, lúa mì và đậu nành; Gỗ xẻ, chất bán dẫn, nhựa và bìa cứng để đóng gói; tình trạng khan hiếm nguyên vật liệu diễn ra trên toàn cầu.
Linebarger, Chủ tịch và Giám đốc điều hành của nhà sản xuất động cơ và máy phát điện Cummins Inc., tại thành phố Colubus, bang Indiana, cho biết: “Bạn kể tên mặt hàng nào thì chúng tôi đều thiếu mặt hàng đó”.
Khách hàng đang “cố gắng có được mọi thứ do nhận thấy nhu cầu ngày càng cao”, Jennifer Rumsey, Chủ tịch của Cummins nói. “Mọi người cho rằng tình trạng khan hiếm sẽ kéo dài sang năm sau”.
Cuộc khủng hoảng lớn vào năm 2021 này mang tính tuyệt đối, và nó rất khác so với sự gián đoạn nguồn cung trong quá khứ. Trên thực tế, không ai biết được khi nào nó sẽ kết thúc. Doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều bị ảnh hưởng.
Đội xe tải lớn nhất châu Âu, Girteka Logistics, cho biết các doanh nghiệp phải cạnh tranh để có đủ nguồn cung nguyên vật liệu. Hãng đồ uống Monster Beverage Corp. ở thành phố Corona, California, đang lâm vào cảnh thiếu lon nhôm. Trong khi đó, công ty MOMAX Technology Ltd của Hồng Kông chuyên sản xuất các sản phẩm AIoT và điện gia dụng, đang phải trì hoãn sản xuất do khan hiếm chất bán dẫn.
Tình hình thêm trầm trọng khi ngày càng nhiều hiện tượng thiên tai bất thường tác động tiêu cực lên chuỗi cung ứng hàng hóa trong những tháng gần đây. Một sự cố kinh hoàng ở kênh đào Suez đã làm tắc nghẽn tuyến vận chuyển toàn cầu vào tháng 3. Hạn hán đã tàn phá các loại cây nông nghiệp. Một đợt băng giá kỷ lục và mất điện hàng loạt đã dừng hoàn toàn các hoạt động khai thác dầu mỏ và khí đốt trên khắp miền Trung nước Mỹ vào tháng 2. Cách đây chưa đầy hai tuần, tin tặc đã đánh sập đường ống dẫn nhiên liệu lớn nhất của Mỹ, khiến giá xăng lần đầu tiên vọt lên hơn 3 USD/gallon kể từ năm 2014. Còn hiện tại, đợt bùng phát Covid-19 khủng khiếp tại Ấn Độ đang đe dọa hoạt động của các cảng lớn nhất nước này.
Chi phí vận chuyển tăng vọt
Nếu ai đó nghĩ rằng tất cả những điều trên sẽ kết thúc sau vài tháng nữa, hãy xem xét một chỉ số kinh tế lạ lùng của Hoa Kỳ mang tên Chỉ số các nhà quản lý hậu cần. Chỉ số này được xây dựng dựa trên cuộc khảo sát hàng tháng đối với các giám đốc phụ trách cung ứng về chi phí hàng tồn kho, chi phí vận chuyển và chi phí kho hàng. Đây là ba thành phần quan trọng để quản lý chuỗi cung ứng. Chỉ số này đang ở mức cao thứ hai kể từ năm 2016, và ít có khả năng đi xuống trong vòng 1 năm tới. Chỉ số này có tính chính xác đáng kinh ngạc, nó đã phản ánh đúng chi phí thực tế trong khoảng 90% thời gian khảo sát.
Zac Rogers, người giúp biên soạn chỉ số này và là trợ lý giáo sư tại Đại học Kinh doanh của Đại học Bang Colorado, cho rằng đây là một sự thay đổi về mô hình. Trong quá khứ, ba yếu tố trên được tối ưu hóa để đạt chi phí cung ứng thấp và độ tin cậy cao. Ngày nay, khi nhu cầu thương mại điện tử tăng phi mã, các nhà kho đã chuyển từ vùng ngoại ô giá rẻ về các bãi đậu xe ở trung tâm thành phố hoặc các cửa hàng bách hóa bị bỏ trống. Dù giúp việc giao hàng được thực hiện nhanh chóng hơn, giá bất động sản, lao động và tiện ích cho chuỗi hậu cần lại đều cao hơn. Trong khi đó, hàng tồn kho từng được coi là tiêu sản trước đại dịch, thì nay lại được tích trữ. Chi phí vận tải, dễ biến động hơn hai chi phí còn lại, sẽ không vọt lên cho đến khi nhu cầu tăng cao.
Rogers nói: “Về cơ bản, mọi người cho rằng nguồn cung khó đến được nơi phù hợp với nhu cầu. Do đó, các đợt tăng giá nguyên vật liệu sẽ tiếp diễn trong 12 tháng tới”.
Tình trạng này đang bắt đầu phản ánh qua sự gia tăng của chi phí hộ gia đình và chi phí doanh nghiệp. Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ, không bao gồm thực phẩm và nhiên liệu, đã nhảy vọt trong tháng 4 so với mức cao nhất hàng tháng kể từ năm 1982. Chi phí của các nhà sản xuất lớn tại Mỹ đang gấp đôi so với dự đoán của các nhà kinh tế. Nếu các công ty không chuyển chi phí này cho người tiêu dùng và tăng năng suất, nó sẽ ăn vào biên lợi nhuận của họ.
Ngày càng nhiều nhà quan sát cảnh báo rằng lạm phát sẽ tăng nhanh. Mối đe dọa này đã đủ gióng lên hôi chuông với các thủ đô, ngân hàng trung ương, nhà máy và siêu thị trên toàn thế giới. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đang phải đối mặt với những câu hỏi về việc khi nào họ sẽ tăng lãi suất để ngăn chặn lạm phát. Rủi ro chính trị có thể nhận thấy này cũng đe dọa sẽ làm đảo lộn các kế hoạch chi tiêu của Tổng thống Joe Biden.
Nguy cơ lạm phát
David Landau, Giám đốc sản phẩm của BluJay Solutions, nhà cung cấp dịch vụ và phần mềm hậu cần có trụ sở tại Vương quốc Anh, cho biết: “Những yếu tố này tạo ra một môi trường chín muồi cho lạm phát, với các đòn bẩy bị hạn chế”.
Tình trạng hàng hóa thiếu hụt, vận chuyển tắc nghẽn và giá cả tăng vọt gần đạt ngưỡng cao kỷ lục, làm dấy lên lo ngại về lạm phát khi nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng quá nhanh.
Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách đã đưa ra một số lý do khiến họ không cho rằng áp lực lạm phát có thể vượt khỏi tầm kiểm soát. Thống đốc FED, Lael Brainard gần đây khuyên các quan chức nên “kiên nhẫn để vượt qua giai đoạn gia tăng nhất thời này”. Một lý do được viện dẫn nữa là, các đợt tăng giá lớn gần đây phần nào là do so sánh sai lệch với đợt giảm mạnh của một năm trước. Hơn nữa, doanh số bán lẻ của Hoa Kỳ đã bị chững lại trong tháng 4 sau khi tăng mạnh trong tháng trước đó, và giá hàng hóa gần đây đã tụt khỏi mức cao nhất trong nhiều năm.
Dennis Wolkin là Phó chủ tịch điều hành doanh nghiệp sản xuất nệm cũi Colgate Mattress có trụ sở tại Atlanta. Sản phẩm của họ được phân phối tại chuỗi bán lẻ Target lớn thứ 8 nước Mỹ và các cửa hàng độc lập khác.
Ông cho biết đang phải chật vật để mua được bọt polyurethane làm đệm mút. Sự cạnh tranh càng tăng lên khi đợt băng giá vào tháng 2 đã làm ngưng trệ sản xuất tại miền Nam nước Mỹ và “các công ty đặt hàng quá nhiều và tích trữ hết mức có thể”.
Ông nói: “Tình hình đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chúng tôi, đặc biệt là trong tháng qua. Chúng tôi chưa bao giờ thấy bất cứ điều gì như thế này”.
Mặc dù bọt polyurethane đắt hơn 50% so với trước đại dịch Covid-19, nhưng Wolkin sẽ mua gấp đôi số lượng mình cần và tìm cách mở rộng kho chứa thay vì từ chối đơn đặt hàng từ khách hàng mới.
Ông nói: “Mọi công ty như chúng tôi đều sẽ mua nhiều hơn”.
Ngay cả các công ty đa quốc gia có hệ thống quản lý chuỗi cung ứng được số hóa và đội ngũ giám sát dày đặc cũng đang phải nỗ lực ứng phó với sự khan hiếm này.
Giám đốc điều hành của hãng đồ gia dụng Whirlpool Corp., Marc Bitzer, cho biết chuỗi cung ứng của họ đang “bị đảo lộn khá nhiều”. Họ đang phải dần tăng giá bán sản phẩm. Thông thường, Whirlpool và các doanh nghiệp lớn khác sản xuất hàng hóa theo các đơn đặt hàng gửi đến và dự báo doanh số bán hàng tương ứng. Còn bây giờ, họ bị phụ thuộc vào loại nguyên vật liệu sẵn có.
Bitzer nói: “Đây là cách các công ty vận hành ở thời điểm hiện tại. Có người cho rằng tình trạng này chỉ là tạm thời. Nhưng chúng tôi thấy việc khan hiếm nguyên liệu đã diễn ra trong một thời gian dài”.
Sự căng thẳng này gây áp lực ngược trở lại sản lượng nguyên liệu thô toàn cầu. Nó có thể còn dai dẳng vì để tăng cường sản xuất những nguyên vật liệu khan hiếm – đối với cả nguồn vốn hoặc lao động bổ sung – đều tốn kém thời gian và chi phí. Giá gỗ xẻ, đồng, quặng sắt và thép đều cao hơn trong những tháng gần đây do nguồn cung hạn chế, nhất là khi hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ và Trung Quốc đều có nhu cầu nhiều hơn.
Giá dầu thô, các nguyên liệu công nghiệp từ nhựa đến cao su và hóa chất cũng đang leo thang. Một số được tính vào giá hàng hóa bán ra. Nhà sản xuất màng nhôm và túi nhựa Reynolds Consumer Products Inc., đang lên kế hoạch tăng giá bán lần thứ ba trong năm 2021.
Chi phí thực phẩm cũng đang tăng vọt. Dầu cọ, loại dầu ăn được tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới, đã tăng hơn 135% trong năm 2020 lên mức kỷ lục. Đậu nành lần đầu tiên đạt mức 16 USD/giạ (đơn vị đo lường của Mỹ) kể từ năm 2012. Giá ngũ cốc trong các hợp đồng tương lai đạt mức cao nhất trong 8 năm, trong khi giá lúa mì chạm mức cao nhất kể từ năm 2013.
Chỉ số của Liên hợp quốc về chi phí lương thực thế giới đã tăng liên tiếp 11 tháng tính đến tháng 4/2021, đạt mức cao nhất trong vòng bảy năm. Đây cũng là đợt tăng giá dài nhất trong hơn 1 thập kỷ qua. Nó diễn ra trong bối cảnh lo lắng về thời tiết và làn sóng thu mua cây trồng ở Trung Quốc có thể thắt chặt nguồn cung và đe dọa lạm phát nhanh hơn.
Cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống và dài hạn
Một lý do lớn cho sự tăng giá nguyên vật liệu là nền kinh tế Hoa Kỳ đang phục hồi nhanh hơn hầu hết các nước khác. Ngoài khơi California, hàng chục tàu container đang chờ dỡ hàng tại các cảng từ Oakland đến Los Angeles. Hầu hết hàng hóa đến từ Trung Quốc, nơi đang ghi nhận giá sản xuất tháng 4/2021 tăng cao nhất kể từ năm 2017. Điều này càng gia tăng áp lực chi phí lên các nhà máy tại đây, và gây ra rủi ro cho các quốc gia khác khi nhập khẩu nguyên vật liệu từ Trung Quốc.
Trên khắp Đông Á – trung tâm sản xuất của thế giới, tình trạng tắc nghẽn chuỗi cung ứng đặc biệt nghiêm trọng. Sự khan hiếm chất bán dẫn đã lan rộng từ lĩnh vực ô tô sang các chuỗi cung ứng điện thoại thông minh vô cùng phức tạp tại châu Á.
John Cheng điều hành MOMAX, công ty chuyên sản xuất các sản phẩm điện tử tiêu dùng, từ bộ sạc điện thoại thông minh không dây từ tính đến máy lọc không khí gia đình thông minh. Công ty này có khoảng 2/3 trong số 300 nhân viên làm việc tại một nhà máy ở Thâm Quyến. Họ đang phải trì hoãn việc sản xuất pin dự phòng mới cho các sản phẩm của Apple như iPhone, Airpods, iPad và Apple Watch vì thiếu chip.
Dây chuyền sản xuất của nhà máy Momax tại Thâm Quyến.
Theo Vincent Tsui từ công ty nghiên cứu độc lập về đầu tư toàn cầu Gavekal Research, cuộc khủng hoảng chất bán dẫn không phải một sự gián đoạn ngắn hạn. Nó đang đe dọa toàn bộ lĩnh vực điện tử rộng lớn và có thể bắt đầu bóp chết các nền kinh tế phụ thuộc xuất khẩu của châu Á. Tsui cho rằng đây “không chỉ đơn giản là kết quả của một vài trục trặc tạm thời. Về bản chất, chúng có tính hệ thống hơn và ảnh hưởng đến toàn bộ các ngành công nghiệp, không chỉ sản xuất ô tô”.
Nhận thấy mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng chip, Hàn Quốc có kế hoạch chi khoảng 450 tỷ USD để xây dựng cơ sở sản xuất chip lớn nhất thế giới trong thập kỷ tới.
Trong khi đó, hoạt động vận chuyển từ các nhà máy đến người tiêu dùng được thực hiện thông qua các chuyến tàu, xe tải và xe lửa dọc theo các điểm sản xuất trên toàn cầu. Các tàu container đang hoạt động hết công suất, đẩy giá cước vận tải biển lên mức cao kỷ lục và làm tắc nghẽn các hải cảng. Tình trạng căng thẳng đến mức các lô hàng quần áo của Columbia Sportswear Co. đã bị trì hoãn trong ba tuần. Nhà bán lẻ này dự kiến dòng sản phẩm mùa thu của họ cũng sẽ đến muộn.
Các giám đốc điều hành của A.P. Moller-Maersk A/S, hãng vận tải container số 1 thế giới, cho biết giá cước vận tải đường biển chỉ giảm từ từ trong thời gian còn lại của năm nay. Mặc dù vậy, chúng cũng khó trở lại mức rẻ như thập kỷ trước. Công suất vận chuyển sẽ tăng khi có thêm các tàu mới, nhưng thường phải mất hai đến ba năm mới đóng xong.
Chuyên gia kinh tế thương mại của HSBC, Shanella Rajanayagam ước tính rằng mức tăng giá vận tải bằng container trong năm qua có thể làm tăng giá sản xuất của khu vực đồng euro lên tới 2%.
Giá vận tải đường sắt và đường bộ cũng không “kém cạnh”. Chỉ số Cass Freight Index đo lường chi tiêu vận chuyển hàng hóa mỗi tháng tại Mỹ đã đạt mức kỷ lục vào tháng 4. Đây là lần tăng thứ 4 của chỉ số này chỉ trong vòng 5 tháng. Todd Fowler, nhà phân tích của công ty tư vấn đầu tư và dịch vụ tài chính KeyBanc Capital Markets, cho biết giá giao ngay của dịch vụ xe tải đang trên đà tăng 70% trong quý thứ hai so với một năm trước đó. Mức tăng này có thể đạt 30% trong năm nay so với năm 2020.
Fowler cho biết: “Chúng tôi dự báo giá sẽ tiếp tục leo thang do nguồn cung ít, nhu cầu theo mùa và hoạt động kinh tế cải thiện. Tất cả xuất phát từ những hạn chế về công suất vận tải do thiếu xe tải và tài xế”.
Lee Klaskow, nhà phân tích cấp cao của Bloomberg Intelligence nói: “Hầu hết các phương thức vận tải đều nắm quyền tự định giá. Sự mất cân bằng cung cầu sẽ giúp giữ tỷ giá cao, mặc dù chúng nên được duy trì ở mức vừa phải để đối phó với tình trạng không bền vững ở hiện tại cho tới chuỗi cung ứng được cải thiện. Điều này đang gây áp lực lên các hệ thống, làm tắc nghẽn chuỗi cung ứng và hạn chế công suất vận tải”.
Đối với công ty đóng gói DS Smith Plc có trụ sở tại London, những thách thức đang đến từ nhiều phía. Trong thời gian đại dịch, khách hàng đổ xô mua hàng trực tuyến, đẩy nhu cầu đối với loại hộp ePack và các vật liệu vận chuyển khác lên tới 700%. Sau đó, chi phí cung ứng bị đội lên gấp đôi ở mức 200 Euro (243 đô la) một tấn sợi tái chế để sản xuất các loại hộp.
Miles Roberts, Giám đốc điều hành của DS Smith cho biết: “Đó là một khoản chi phí đáng kể vì mỗi năm chúng tôi mua từ 4 đến 5 triệu tấn chất xơ đã qua sử dụng”.
Ông cũng không coi việc mua hàng trực tuyến do phong tỏa là một xu hướng tạm thời. “Thương mại điện tử sẽ tiếp tục tăng trưởng”.
Tại Colgate Mattress, Wolkin từng đặt nguyên liệu vào thứ Hai và nhận hàng vào thứ Năm. Còn bây giờ, các nhà cung cấp không thể hứa hẹn bất cứ điều gì. Và rõ rang, công ty này không thể tiếp tục duy trì chi phí đầu vào cao hơn mà vẫn giữ nguyên chất lượng.
Wolkin nói: “Đây là một vấn đề lâu dài. Lạm phát đang tới gần – và đến một lúc nào đó, bạn buộc phải thay đổi theo nó”.
Nguồn doanhnhan.vn-TT